
Vui lòng nhấp vào liên kết bên dưới để tải Ebook.
Giới Thiệu Sách:
Kinh bát nhã – Thích Thanh Từ
Bát-nhã là cánh cửa đi vào nhà thiền, nên nói “cửa Thiền là cửa không”. Vì thế, những năm đầu ở Thiền viện Chơn Không, tôi đã giảng Tâm Kinh Bát-nhã cho Tăng Ni học và tụng mỗi đêm. Sau đó được ghi lại in thành sách phổ biến.
Đến nay xem kỹ thấy còn nhiều sơ sót, nên năm 2000 được mời giảng tại trường hạ ở Vũng Tàu, tôi giảng lại kinh Bát-nhã cho Tăng Ni và Phật tử nghe. Giảng hết mùa an cư cũng vừa xong quyển kinh này, thính giả thấy được tầm quan trọng của trí Bát-nhã đối với người tu Phật, nên ghi lại và xin phép in ra phổ biến. Tôi hoan hỉ tùy thuận, viết ít lời đầu sách giới thiệu cùng độc giả.
Quyển Tâm Kinh Bát-nhã lời ít mà lý sâu, mong quí độc giả chịu khó nghiền ngẫm kỹ, sẽ thấy được lý thú của Phật pháp cô đọng trong đây.
Đầu hạ năm 2001 – Tân Tỵ
Giảng giả
THÍCH THANH TỪ
Kinh Bát-nhã là bộ kinh mà tất cả Tăng Ni, Phật tử chúng ta ai cũng đọc, cũng thuộc. Thuộc kinh, đọc kinh mà không hiểu kinh, đó là điều thiếu sót lớn. Vì vậy, để cho tất cả Tăng Ni nắm vững, hiểu tường tận về kinh Bát-nhã, tôi sẽ thứ tự giảng giải cho quí vị rõ từ đầu đến cuối tinh thần Bát-nhã như thế nào.
Trước tiên, chúng ta phải tìm hiểu nguồn gốc kinh Bát-nhã xuất phát từ đâu. Ở đây tôi nói luôn lý do phát xuất các hệ Bát-nhã sau này. Nếu chúng ta đọc kinh Trung A-hàm, trong bài kinh Nhân Duyên, Phật dạy rằng: “Ai hiểu thấu được lý nhân duyên thì người đó sẽ thấy đạo.” Thấy đạo tức là thấy được chân lý, thấy được lẽ thật.
Nếu chúng ta nghiền ngẫm kỹ, sẽ thấy lý nhân duyên là nguồn gốc để tiến lên tinh thần Bát-nhã sau này. Ngày xưa, chúng tôi học Trung Quán luận, thấy các Tổ xưa đã từng dẫn một bài kệ trong kinh A-hàm, để nói lên tinh thần Bát-nhã:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị Không
Diệc danh vi Giả danh
Diệc danh Trung đạo nghĩa.
Đó là nền tảng của bộ luận Trung Quán. Bồ-tát Long Thọ y cứ lý nhân duyên diễn giải thành bộ luận Trung Quán. Đức Phật từ lý nhân duyên giảng qua hệ Bát-nhã. Hệ Bát-nhã gồm cả thảy sáu trăm quyển, chúng ta học không biết bao giờ mới xong. Nhưng muốn nắm được trọng yếu của Bát-nhã, thì Bát-nhã Tâm Kinh là trung tâm. Vì vậy Bát-nhã Tâm Kinh là quyển kinh mà tất cả Tăng Ni bất cứ hệ phái nào dù Tịnh độ, Thiền, Mật đều đọc, đều thuộc hết.
Bát-nhã Tâm Kinh là rút gọn tinh hoa toàn bộ Bát-nhã. Nếu chúng ta hiểu thấu được Bát-nhã Tâm Kinh là chúng ta nắm được phần trọng yếu của hệ Bát-nhã. Cho nên chư Tổ luôn luôn khuyên dạy chúng ta, đêm nào cũng phải tụng một biến hoặc ba biến Bát-nhã Tâm Kinh.
Nhưng sau này người ta lại nghĩ Bát-nhã là kinh bổ khuyết. Chúng ta đặt câu hỏi lại xem bổ khuyết là bổ khuyết cái gì? Có nhiều người giảng khi tụng kinh, có nhảy hoặc sót chữ, vì vậy sau đó phải tụng Bát-nhã bù lại cho đủ nên gọi là bổ khuyết. Đó là một lầm lẫn lớn.
Sự thật bài kinh Bát-nhã là bài kinh trí tuệ. Trí tuệ đó siêu việt tất cả, đến chỗ tột cùng nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Bát-nhã là trí tuệ, ba-la-mật là cứu kính hoặc cùng tột. Trí tuệ cứu kính hay trí tuệ cùng tột là Bát-nhã ba-la-mật. Chữ Tâm Kinh là kinh nói về tâm, đây thuộc chữ Hán. Như vậy tựa của kinh Bát-nhã kết hợp vừa chữ Phạn, vừa chữ Hán. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa là chữ Phạn. Ma-ha Trung Hoa dịch là đại, Việt dịch là lớn. Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa là trí tuệ rộng lớn cùng tột. Tâm Kinh có chỗ dịch là bộ kinh ruột, có chỗ dịch là kinh trái tim. Kinh ruột là sao? Tức kinh Bát-nhã này là trọng tâm của toàn thể sáu trăm quyển Bát-nhã. Dịch ruột hay tim chỉ là hình thức thôi. Nói cho đúng kinh Bát-nhã mà hằng đêm chúng ta tụng là trọng tâm của hệ Bát-nhã.
Ở thế gian người có bằng cấp cao gọi là người có trí tuệ. Nhưng trí tuệ đó đã rộng lớn chưa? Chưa phải là trí tuệ rộng lớn cùng tột. Tại sao vậy? Vì trí tuệ đó chỉ giỏi ở một ngành, một nghề chớ không phải bao gồm hết. Vì vậy thế gian hiểu trí tuệ là do học hành được trí tuệ sáng suốt, thành công trong ngành nghề của mình. Còn trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ thấu suốt cùng tột nguồn gốc của các pháp, cho nên trí tuệ đó rộng lớn khôn ngằn mé, không có trí tuệ nào bì được. Trí tuệ này vượt hơn trí tuệ thường ở thế gian. Cho nên chữ Bát-nhã là trí tuệ, mà trong nhà Phật không dịch, vẫn để nguyên chữ Bát-nhã. Chúng ta thấy ý nghĩa thâm trầm của Bát-nhã, không phải giản đơn như sự hiểu biết tầm thường ở thế gian. Đó là tôi nói ý nghĩa chữ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chẳng những lý nhân duyên phát sanh ra hệ Bát-nhã, mà cũng chính lý nhân duyên này phát sanh ra hệ trùng trùng duyên khởi của kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh Hoa Nghiêm nói rằng tất cả pháp trên thế gian liên hệ chằng chịt với nhau, lớp này đến lớp khác. Tại sao như vậy? Vì đó là nhân duyên.
Tôi thí dụ như cái bàn từ đâu mà có? Tự nhiên căn cứ trên lý nhân duyên thì nó từ thợ mộc, từ gỗ, bào, đục, đinh v.v… hợp lại thành cái bàn. Đó là lớp nhân duyên thứ nhất. Lớp thứ hai, người ta hỏi thợ mộc, gỗ, bào, đục, đinh từ đâu có? Nếu xét cho cùng tột thì sự liên hệ đó trùng trùng điệp điệp, không thể nào nói một hai chặng mà hết được. Vì vậy gọi là trùng trùng duyên khởi. Đã là trùng trùng duyên khởi thì giữa chúng ta và mọi người có liên hệ gì với nhau không?
Chúng ta có chiếc áo mặc, có chén cơm ăn, có phương tiện đi lại, thì chúng ta phải liên hệ với bao nhiêu người. Trên thế gian này chúng ta đều mang nợ hết, ai cũng có công đóng góp cho mình. Cho nên với tinh thần kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát thấy chúng sanh khổ là mình khổ, thấy chúng sanh vui là mình vui. Tại sao? Vì mình với mọi người không tách rời được. Vì thấy được sự liên hệ trùng trùng duyên khởi nên tâm Bồ-tát rộng lớn, nhìn mọi người đều là ân nhân của mình. Tất cả đều là người góp sức tạo dựng sự sống ấm no cho mình, nên mình đều quí trọng.
Rõ ràng kinh Hoa Nghiêm có liên hệ từ lý nhân duyên, tức từ các kinh A-hàm. Hệ A-hàm là lý nhân duyên, tiến lên Bát-nhã là Tánh không, tiến lên Hoa Nghiêm là trùng trùng duyên khởi. Tất cả đều bắt nguồn từ nhân duyên. Như vậy giáo lý nhà Phật đều có sự liên hệ với nhau, chớ không phải độc lập riêng một bài kinh. Nhưng vì đức Phật nói từ thấp dần dần lên cao, nên chúng ta thấy như có nhiều kinh sai khác. Thật ra không phải vậy.