Vui lòng nhấp vào liên kết bên dưới để tải Ebook.
Giới Thiệu Sách:
Thời Khắc – Michael Cunningham
Thời khắc (The hours) là cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer của nhà văn Michael Cunningham từng được chuyển thể thành phim và là bộ phim xuất sắc nhất của năm 2002 với các giải thưởng: Oscar – 2002 dành cho nữ diễn viên chính, Quả Cầu Vàng – 2002 dành cho Phim tâm lý xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính trong phim bi xuất sắc nhất. Tác phẩm liên kết số phận của ba người phụ nữ ở ba thời đại khác nhau.
Câu chuyện thứ nhất diễn ra năm 1929, ở thị trấn Richmond nước Anh, nữ văn sĩ Virginia Woolf đang cố gắng bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết Bà Dalloway, trong khi vật lộn với căn bệnh trầm cảm của mình.
Câu chuyện thứ hai là vào năm 1951, ở California. Laura Brown – một người vợ hiền đang cùng con trai chuẩn bị chiếc bánh cho sinh nhật chồng. Trong lúc đó, tâm trí cô không khỏi bị phân tán bởi những điều cô đọc trong cuốn sách Bà Dalloway.
Câu chuyện cuối cùng là thời hiện đại ở New York. Clarissa Vaughan – một phụ nữ ở độ tuổi ngũ tuần chuẩn bị bữa tiệc mừng cho giải thưởng người bạn – nhà thơ Richard – nhận được. Bà phân vân tình cảm mình dành cho Richard và người bạn gái đang chung sống là Sally Lester.
Mỗi người phụ nữ đã phải trải qua những khổ đau, suy sụp và có cả những giây phút hạnh phúc để nhận rõ giá trị từng khoảnh khắc trong cuộc đời họ.
Mở đầu
Bà hối hả rời khỏi nhà, mặc trên mình chiếc áo khoác quá dày và nặng so với thời tiết ngày hôm ấy. Giờ là năm 1941. Một cuộc chiến tranh nữa lại bắt đầu. Bà để lại một mẩu giấy ghi lời nhắn cho Leonard và một lời nhắn nữa cho Vanessa. Bà quả quyết đi về phía con sông, hoàn toàn chắc chắn về điều mình sẽ làm, nhưng ngay cả lúc này bà gần như mất hết tập trung khi thấy mấy đụn cát, nhà thờ và một đàn cừu, tựa như những chấm sáng trắng pha một chút sắc vàng rất nhẹ của lưu huỳnh, đang bình thản gặm cỏ dưới bầu trời đang dần tối sầm lại. Bà dừng lại, đưa mắt nhìn đàn cừu và bầu trời, rồi tiếp tục bước đi. Có những giọng nói vang lên rì rầm sau lưng; tiếng động cơ máy bay ném bom ầm ì trên bầu trời, cho dù bà không thể nhìn thấy chúng khi ngước mắt lên tìm kiếm. Bà đi qua trước mặt một trong những người làm công ở trang trại (có phải tên anh ta là John không nhỉ?), đó là một người đàn ông vạm vỡ có cái đầu nhỏ nhắn, anh ta mặc một chiếc áo vest màu khoai tây, đang bận bịu dọn sạch đường rãnh chạy qua rặng liễu gai. Anh ta ngước lên nhìn bà, gậtđầu chào, rồi lại cúi xuống mặt nước màu nâu. Khi đi ngang qua anh ta trên đường ra sông, bà chợt nghĩ anh ta mới thật may mắn làm sao khi được ở đó dọn dẹp một cái rãnh nước chạy qua rặng liễu gai. Còn bản thân bà đã thất bại thảm hại. Bà chẳng phải là nhà văn, mà chỉ đơn thuần là một kẻ lập dị có chút năng khiếu. Vài mảng nhỏ của bầu trời phản chiếu sáng lấp lánh trên những vũng nước nhỏ còn đọng lại sau cơn mưa tối qua. Đôi giày của bà hơi lún xuống nền đất mềm. Bà đã thất bại và những giọng nói giờ đã quay trở lại, lầm rầm thành âm thanh không rõ tiếng ở ngay đây, ngoài tầm nhìn và sau lưng bà, nhưng chỉ cần bà quay lại là chúng đã lảng đi nơi khác. Những giọng nói quay trở lại và cơn nhức đầu đang tới gần, cũng chắc chắn như cơn mưa trên bầu trời, cơn đau đầu sẽ nghiền nát bà và thay thế bà bằng chính nó. Cơn đau đầu đang cận kề và dường như (có phải chính bà đã gọi chúng tới hay không nhỉ?) những chiếc máy bay ném bom lại xuất hiện trên bầu trời. Bà tới bờ đê, leo lên đê rồi xuống sông.
Có một người câu cá ở phía thượng nguồn, tít tận xa, liệu ông ta có thấy bà không? Bà bắt đầu tìm một tảng đá. Rồi bắt tay vào việc một cách hối hả nhưng tuần tự, như thể đang thực hiện theo một công thức nấu ăn nghiêm ngặt nếu muốn thành công. Bà chọn lấy một tảng đá có kích thước và hình dạng tựa như cái thủ lợn. Thậm chí cả khi cầm nó lên và nhét vào một trong những túi áo khoác (chiếc áo cổ lông cọ lên cổ bà ngưa ngứa), bà vẫn cảm thấy vẻ lạnh lẽo nhợt nhạt của tảng đá cũng như màu sắc của nó, một màu nâu sữa xen lẫn những chấm màu lục. Bà đứng sát mép nước, nơi mặt nước ôm sát bờ, đổ đầy nước trong vắt vào những cái hõm nhỏ trên mặt bùn khiến chúng hoàn toàn khác biệt so với dòng sông vàng nâu lốm đốm, trông như một con đường trải rộng đều đặn từ bờ bên này qua bờ bên kia. Bà bước lên trước. Không cởi giày ra. Nước sông khá lạnh, nhưng cũng không tới mức không chịu nổi. Bà nghĩ tới Leonard. Bà nghĩ tới hai bàn tay và bộ râu của ông, những đường hằn sâu quanh miệng ông. Bà nghĩ tới Vanessa, tới lũ trẻ, tới Vita và Ethel: Quá nhiều thứ để nghĩ. Tất cả họ cũng thất bại, phải vậy không? Đột nhiên bà cảm thấy thương họ tột độ. Bà nghĩ tới việc quay lại, vứt bỏ tảng đá ra khỏi túi áo, quay về nhà. Có lẽ bà vẫn kịp quay về để hủy những mảnh giấy ghi lời nhắn. Bà có thể tiếp tục sống, có thể thực hiện điều tử tế cuối cùng đó. Nước ngập tới đầu gối, bà quyết định không làm vậy. Những giọng nói đang ở đây, cơn nhức đầu đang tới và nếu bà quay về để Leonard và Vanessa chăm sóc, họ sẽ không đời nào để bà bỏ đi lần nữa, hay là có nhỉ? Bà khăng khăng tin họ sẽ để bà đi. Bà lúng túng lội ra (đáy sông thật bẩn thỉu) cho tới khi nước ngập tới tận hông. Bà ngước mắt nhìn lên thượng nguồn, về phía người câu cá, người đó mặc một chiếc áo khoác đỏ và không hề trông thấy bà. Mặt sông vàng ệch (ngả về vàng nhiều hơn nâu khi nhìn thật gần từ chỗ bà đứng lúc này), âm u phản chiếu bầu trời. Vậy đây chính là khoảnh khắc cuối cùng, một người đàn ông mặc áo khoác đỏ đang câu cá và một bầu trời âm u đầy mây phản chiếu trên mặt nước mờ đục. Gần như vô thức (với bà có vẻ là vô thức), bà bước lên, hay vấp chân nhao người ra phía trước và tảng đá kéo bà xuống. Tuy vậy, trong khoảnh khắc, dường như chẳng có gì xảy ra, dường như lại thất bại một lần nữa, bà có thể dễ dàng bơi trở lại để thoát khỏi làn nước lạnh cóng, nhưng rồi dòng chảy ập tới quanh bà, mang bà đi với lực kéo bất ngờ, mạnh mẽ như thể một người đàn ông vạm vỡ vừa nổi lên từ đáy nước, nắm lấy hai chân bà, ghì chặt chúng vào ngực anh ta. Cảm giác thật sống động.