Downloadsachmienphi.com

Các triều đại Việt Nam

Các triều đại Việt Nam - Quỳnh Cư
Các triều đại Việt Nam –

Vui lòng nhấp vào liên kết bên dưới để tải Ebook.

Giới Thiệu Sách:

Các triều đại Việt Nam –

Lâu nay các bạn độc trẻ muốn tìm hiều lịch sử dân tộc còn gặp nhiều khó khăn. Các sử gia phong kiến thường chỉ chép về cuộc đời và hành động của các vị vua chúa qua mỗi triều đại. Ngược lại, các biên soạn của các nhà sử học ngày nay lại phân kỳ và đánh giá sự phát triển lịch sử theo các hình thái kinh tế xã hội và dấu tranh giai cấp, không chú ý nhiều đến cuộc đời của các ông vua, bà chúa. Thảng hoặc chỉ có một số vị vua có công tích nổi bật trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước mới được đề cập đến. Vì vậy, độc giả trẻ khi đọc các cuốn thông sử hay các giáo trình lịch sử ở trung học trong mấy chục năm trở lại đây, chưa có được một niệm đầy đủ về sự mở đầu kế tục của các triều đại, các đời vua trong lịch sử dân tộc.

Các sử gia phong kiến thường chỉ chép về cuộc đời và hành động của các vị vua chúa qua mỗi triều đại. Ngược lại, các biên soạn của các nhà sử học ngày nay lại phân kỳ và đánh giá sự phát triển lịch sử theo các hình thái kinh tế xã hội và dấu tranh giai cấp, không chú ý nhiều đến cuộc đời của các ông vua, bà chúa. Thảng hoặc chỉ có một số vị vua có công tích nổi bật trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước mới được đề cập đến. Vì vậy, độc giả trẻ khi đọc các cuốn thông sử hay các giáo trình lịch sử ở trung học trong mấy chục năm trở lại đây, chưa có được một niệm đầy đủ về sự mở đầu kế tục của các triều đại, các đời vua trong lịch sử dân tộc.

1.Việt Nam- Quốc Hiệu

Thời các vua Hùng (2879-258 trước công nguyên) nước ta gọi là Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương (257-207 trước công nguyên) gọi là âu Lạc. Thời nhà Đinh (968-980) dẹp xong loạn 12 sứ quân, lập nên một nước độc lập, lấy tên là Đại Cổ Việt. Sang thời Lý đổi là Đại Việt. Đến thời Nguyễn, vua Gia Long Nguyễn ánh, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, đổi tên nước là Việt Nam. Một chi tiết khá lí thú là từ gần 500 năm trước, ngay trang mở đầu tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm có ghi “ khởi tổ xây nền” khẳng định tên nước ta là Việt Nam. Một sự tiên đoán chính xác 100%.

Cư dân cổ xưa ở nước ta là người Lạc Việt. Họ từ bờ biển Phúc Kiến (Trung Quốc) di cư sang. Hàng năm, theo gió mùa, họ vượt đến các miền ở phương Nam như Hải Nam, vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã (Việt Nam). Họ thường tự sánh mình với loài chim Lạc mà hàng năm, đầu mùa lạnh, chim cũng rời vùng biển Giang Nam. Vì thế, người Việt lấy chim Lạc làm vật tổ. Cái tên của vật tổ ấy trở thành tên của thị tộc. Sau nhiều năm vượt biển như vậy, người Lạc Việt đã ở lại miền Bắc Việt Nam. Họ lấn lướt và đồng hóa với người Anh-đô-nê-diêng bản địa, phát triển theo dọc các sông lớn và chiếm hầu hết những miền đất trung du Bắc Bộ, như Mê Linh, Tây Vu (Vĩnh Phú), Liên Lâu (Bắc Ninh), trung du Thanh Hóa, Nghệ An và Đông Sơn (gần Hàm Rồng Thanh Hóa). Nước ở Đông Nam Châu á, Đông và Nam giáp biển, Tây giáp Lào, Cam-pu-chia, Bắc giáp Trung Quốc. Diện tích Việt Nam hiện nay khoảng 329600km2. Dân số buổi đầu dựng nước chừng 50 vạn ngời. Đến thời Lý-Trần, chừng hơn 5 triệu và nay hơn 70 triệu dân.

là một quốc gia gồm nhiều dân tộc. Ngoài người Kinh còn có 60 dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Căn cứ vào ngôn ngữ, chữ viết ta có thể phân bố các thành phần dân tộc như sau:

1.Tiếng Môn – Khơme. Gồm nhiều nhóm người ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Quảng Trị…

2.Tiếng Thái gồm người Thái Tây Bắc, Thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, khu Việt Bắc, Quảng Ninh. Ngoài ra còn có nhóm người Giấy, Cao Lan, Lự v.v…

3.Tiếng Anh-đô-nê-diêng: Gồm người Chàm, Gia rai, ê – đê (Tây Nguyên).

4.Tiếng Mèo-Dao: Gồm người Mèo, Dao (Việt Bắc, Hòa Bình, Thanh Hóa).

5.Tiếng Tạng-Miến: Gồm người Lô Lô (Hà Giang), Hà Nhì, La Khụ, Cống, Xi La (Tây Bắc).

6.Tiếng Hán: Người Hoa (Quảng Ninh), Sán Dìu (Hà Bắc, Bắc Thái v.v…)

Sách/Ebook Cùng Chủ Đề:

We will be happy to hear your thoughts

Leave a reply

Downloadsachmienphi.com
Logo